26/03/2012 12:47 GMT+7 | Thế giới
(TT&VH) - Cách đây 40 năm, tháng 3 và đầu tháng 4 năm 1972, các tàu chiến của Hạm đội 7 Thái Bình Dương của Mỹ ngày đêm pháo kích vùng đông dân ven biển trước khi chúng tiến hành leo thang ném bom miền Bắc. Để ngăn chặn kẻ thù, lần đầu tiên máy bay MiG-17 của Không quân Nhân dân Việt Nam trực diện đương đầu với hạm đội khét tiếng của Mỹ.
Đó là Trận chiến Mig-17 đánh tàu Hepeer của Hạm đội 7 của 2 phi công Lê Xuân Dị và Nguyễn Văn Bảy B ngày 19/4/1972. Kết quả, cả 4 quả bom đều đánh trúng mục tiêu, 2 tàu khu trục địch bị đánh hỏng, trong đó tàu Hegbee bị hỏng nặng, 2 máy bay của ta về hạ cánh an toàn.
Thông tin từ cuốn nhật ký
Hai gương mặt phi công Lê Xuân Dị và Nguyễn Văn Bảy B, những người đã trực tiếp làm nên huyền thoại đều là những anh hùng của Không quân Nhân dân Việt Nam. Hơn 2 tháng sau chiến thắng đó, trong một trận đánh trên bầu trời Thanh Hóa, máy bay của phi công Nguyễn Văn Bảy B đã trúng đạn và anh đã anh dũng hy sinh.
Để tìm hiểu về trận đánh, tôi đã liên hệ với Đại tá Lê Xuân Dị nhưng hiện ông không có mặt ở quê nhà Bắc Ninh. Sau đó tôi được Trung tá Nguyễn Thị Thanh Lương - Trưởng ban Sưu tầm Bảo tàng Phòng không-Không quân cho hay, hơn 5 năm về trước, gia đình liệt sỹ Nguyễn Văn Bảy B có tặng Bảo tàng một cuốn nhật ký và đã được Bảo tàng lưu giữ rất cẩn thận.
Trong cuốn nhật ký trên tay, ngoài những bài viết của đồng đội và các tác giả liên quan đến trận đánh, có rất nhiều bài văn, bài thơ, những bức thư, tấm ảnh liên quan đến cuộc đời và sự nghiệp của Anh hùng phi công Nguyễn Văn Bảy B. Các tư liệu trong cuốn nhật ký được sắp xếp theo trình tự thời gian của Nguyễn Văn Bảy B từ thưở thiếu thời cho đến lúc anh hy sinh.
Phi công Lê Xuân Dị (trái) và phi công Nguyễn Văn Bảy B bàn phương án đánh tàu chiến Mỹ
Từ quyết tâm của Bộ Tư lệnh Quân chủng
Từ những thông tin trong cuốn nhật ký đã giúp tôi lần tìm ra các tư liệu và nhân chứng trong cuộc. Trận đánh chỉ diễn ra trong một thời điểm nhất định và mau lẹ, song quá trình chuẩn bị của nó lại rất công phu, tỉ mỉ và bí mật đến giây phút cuối cùng.
Suốt tháng 3 và đầu tháng 4 năm 1972, các tàu chiến của Hạm đội 7 ngày đêm pháo kích vùng đông dân ven biển Quảng Bình làm cho nhân dân hết sức hoang mang, gây khó khăn cho việc tiếp tế cho tiền tuyến miền Nam bằng đường biển. Trước tình hình đó, Bộ đội Không quân được lệnh đánh tàu chiến Mỹ với mục đích là để chúng giãn xa bờ, không đánh phá được tiếp tế của ta cho miền Nam. Để chuẩn bị cho kế hoạch này, vào năm 1971, một số phi công Mig-17 được tuyển chọn để huấn luyện bay biển và ném bom mục tiêu trên biển.
Tháng 3 năm 1972, sau khi hoàn thành các khoa mục bay chiến đấu trên biển, các phi công đã cơ động bằng đường bộ vào Gát (Quảng Bình) để nghiên cứu về quy luật hoạt động của máy bay và tàu chiến địch. Sân bay Gát thực ra chỉ có một đoạn đường băng bằng đất nện và một khu vực cất giấu máy bay. Trong suốt thời gian thi công cho tới khi hoàn thành, sân bay Gát giữ được bí mật tuyệt đối. Địch không phát hiện được, kể cả các trang thiết bị, phương tiện và các mặt bảo đảm cho máy bay hoạt động đã được tập kết ở khu vực xung quanh sân bay.
Để chuẩn bị cho trận đánh này Bộ Tư lệnh Quân chủng Phòng không-Không quân tổ chức cuộc họp bàn phương án đánh địch trên biển. Phương tiện tác chiến là MiG-17, Trung đoàn Không quân 923 là đơn vị trực tiếp thực hiện nhiệm vụ chiến đấu. Để phối hợp thực hiện phương án, Bộ Tư lệnh Quân chủng bố trí một tổ chỉ huy bổ trợ tại sở chỉ huy tiền phương của Bộ Tư lệnh Hải quân, một đài quán sát tại Cửa Dinh và đặt Trạm ra-đa 403 đối hải ở cửa Nhật Lệ, thu thập tin tình báo trên biển cung cấp cho sở chỉ huy.
Ngày 18/4/1972, sau khi nghiên cứu quy luật hoạt động của địch, Bộ Tư lệnh quyết định cơ động MiG-17 vào sân bay Gát. Lúc 15 giờ 45 phút, 2 chiếc Mig-17 do 2 phi công kỳ cựu là Lê Hồng Điệp và Từ Đễ đã cất cánh từ Kép (Bắc Giang) bay về Gia Lâm (Hà Nội), rồi từ đó bay tiếp vào sân bay Vinh (Nghệ An). Tới đây, để đảm bảo bí mật, sở chỉ huy tiền phương điều hành cho từng chiếc một vào Gát. Hai chiếc máy bay sau khi hạ cánh đã được các nhân viên kỹ thuật kiểm tra và chuẩn bị đầy đủ các mặt, đồng thời cất giấu vào vị trí an toàn, đợi lệnh chiến đấu.
Chiếc MiG-17 mang số hiệu 2047 do phi công Nguyễn Văn Bảy B điều khiển
trực tiếp đánh tàu chiến Mỹ chiều 19/4/1972
Đến trận đánh huyền thoại trên biển
Về diễn biến của trận đánh, Đại tá phi công Lê Xuân Dị kể lại: “Ngày 19/4/1972 tôi và Nguyễn Văn Bảy B được giao nhiệm vụ trực ban chiến đấu, từ 9 giờ 30 phút, các trạm ra - đa quan sát đã phát hiện các tốp tàu địch ở xa ngoài khơi. Các sở chỉ huy không quân và hải quân, các đài bổ trợ, trạm quan sát liên tục theo dõi, bám sát các hoạt động của địch. Đến 15 giờ, một tốp 4 chiếc tàu địch đã vào đến Đông Lý Hòa 15km, một tốp 3 chiếc ở Đông Quảng Trạch 18km. Đặc biệt, 1 tốp 2 chiếc đã tới Đông Nhật Lệ 7km, các tàu chiến của Hạm đội 7 nã pháo vào thị xã Đồng Hới. Cấp trên nhận định đây là thời cơ thuận lợi để tiến công địch.
Lúc 16 giờ 5 phút, tôi và Nguyễn Văn Bảy B được lệnh xuất kích, mỗi chiếc máy bay mang 2 quả bom dưới cánh. Chúng tôi bay đến cửa sông Gianh thì bị sương mù cản trở tầm nhìn. Chúng tôi được dẫn bay chếch về bên trái điểm cao 280, cách bờ biển Quảng Bình 10km rồi vòng phải liên lạc trực tiếp với sở chỉ huy Đồng Hới. Sau khi vượt qua cửa Lý Hòa, chúng tôi giữ độ cao 500m trên mặt biển, tốc độ 800km/h và tập trung quan sát tìm mục tiêu. Cách khoảng 10 đến 12km, biên đội nhìn thấy hai vệt sáng trắng di chuyển trên mặt biển xanh, xác định đó là 2 chiếc tàu địch đang chạy. Tôi thông báo cho sở chỉ huy đã phát hiện mục tiêu và xin phép công kích. “Cho phép công kích!” - lệnh của cấp trên vừa dứt, tôi chỉnh lại đuờng ngắm rồi cắt bom, cả hai quả bom nổ sát thân tàu. Vòng máy bay về, tôi còn nhìn rõ cột nước vọt lên cao.
Sau loạt bom đó địch phát hiện bị tấn công, chúng phóng tên lửa và báo động toàn Hạm đội 7. Vì giãn cách đội hình hơi xa nên Nguyễn Văn Bảy B không quan sát được tôi, Bảy tiếp tục bay vòng ra phía biển. Khi bay qua cửa Dinh, phát hiện 2 tàu địch phía dưới Nguyễn Văn Bảy B lập tức vòng lại công kích. Cách mục tiêu 750m, anh báo cáo về sở chỉ huy và cắt bom. Đúng vào lúc Bảy vừa cắt bom chúng tôi mới liên lạc được với nhau. Sau đó, biên đội được dẫn về hạ cánh xuống sân bay Gát lúc 16 giờ 22 phút".
Như vậy, sau 17 phút chiến đấu, biên đội đã trở về an toàn. Theo quan sát và sự thú nhận của địch, cả 4 quả bom đều trúng mục tiêu. Hai tàu khu trục địch bị đánh hỏng, trong đó tàu Hepeer bị hỏng nặng.
Thú nhận từ phía bên kia
Thú nhận về sự thất bại này, ngày 20 tháng 4 năm 1972, Hãng AP đưa tin: “Khoảng 6 giờ tàu Hegpee cùng liên đội đảm nhiệm của Hạm đội 7 hoạt động ở vùng biển tình Quảng Bình, Bắc Việt Nam. Hegpee là khu trực hạm vừa được Tổng thống Nixon tuyên dương vì đã vào gần vùng biển Hải Phòng cứu các phi công Mỹ bị bắn rơi ngày 16 tháng 4 năm 1972. Chiếc Hegpee đang pháo kích thì Mig bay tới... 2 quả bom đánh trúng tàu, boong sau của hạm đội bốc cháy, một đoạn lớn của hông bị phá toang, ụ súng chứa đầy đạn nổ tung, tiếng la hét, kêu cứu thất thanh, quang cảnh thật buồn thảm, các khẩu pháp lớn vỡ toác như cái loa kèn. Cuộc tấn công này thật nghiêm trọng vì đây là lần đầu tiên Bắc Việt Nam dùng MiG tấn công Hạm đội 7 của Mỹ. Tin về cuộc tấn công này được loan truyền nhanh chóng trong Quốc hội Mỹ giữa lúc các nghị sỹ Mỹ đang tranh cãi về những bất đồng trong cuộc chiến tranh ở Việt Nam”.
Phóng sự của Nguyễn Thành Trung
Đăng nhập
Họ và tên
Mật khẩu
Xác nhận mật khẩu
Mã xác nhận
Tải lại captchaĐăng ký
Xin chào, !
Bạn đã đăng nhập với email:
Đăng xuất