Tết nói chuyện về lịch pháp khảo cổ

31/01/2025 15:00 GMT+7 | Văn hoá

Cho đến nay, đã hơn 40 năm trôi qua, vấn đề lịch pháp trên trống đồng có lúc được gợi lại, nhưng có thể nói không có bất kể tiến triển khoa học nào.

1. Năm 1977-1978, đang làm trị sự tạp chí Khảo cổ học, tôi được GS Phạm Huy Thông gọi đến và giới thiệu với một ông già: bác Bùi Huy Hồng, một chuyên gia khí tượng từ thời Pháp. Bác Hồng ôm theo một chồng bản vẽ, bản thảo, đang trình bày với Viện trưởng, Tổng biên tập Tạp chí Khảo cổ học Phạm Huy Thông về những "phát hiện" mới của ông về lịch pháp và giới tính trên mặt trống đồng Ngọc Lũ, khá gần với những ý tưởng bay bổng của nhiều người hiện nay chợt nảy ra khi quan sát những hình vẽ, bản rập trên trống đồng.

Theo đề nghị của Tổng biên tập, tôi mời bác về phòng Trị sự và kiên trì nghe bác Hồng giảng giải, trình bày về những phát hiện của mình. Ban Biên tập tạp chí sau đó thống nhất tóm tắt trình bày của bác Bùi Huy Hồng thành một tin phát hiện ngắn và một bài trình bày trong Hội nghị "Những phát hiện mới Khảo cổ học" năm 1977. Tóm tắt lại, bác Hồng dựa vào hình chim thú, thuyền, người, lễ hội để vạch ra lịch pháp thời Hùng Vương và nhận ra yếu tố âm dương từ các tam giác mang biểu tượng Linga-Yoni ở xen kẽ giữa các tia mặt trời ở giữa trống Ngọc Lũ.

Báo Xuân - Tết nói chuyện về lịch pháp khảo cổ - Ảnh 1.

Tác giả Nguyễn Việt (phải) cùng nhóm người Mường nghiên cứu mùa trám tự nhiên trong vùng rừng Mường Vang (Lạc Sơn, Hòa Bình) năm 1982

Tôi nhớ, khi đó, phát hiện hình Linga-Yoni của bác được nhiều nhà khoa học tán thưởng, còn lịch pháp thì ít người sử dụng hơn. Cho đến nay, đã hơn 40 năm trôi qua, vấn đề lịch pháp trên trống đồng có lúc được gợi lại, nhưng có thể nói không có bất kể tiến triển khoa học nào. Riêng tôi, dù đã quan sát, nghiên cứu và đang sở hữu hàng trăm bản rập, bản ảnh các trống đồng Đông Sơn, Điền đẹp nhất vẫn chưa tìm được manh mối lịch pháp nào từ đó.

Chứng cứ lịch pháp đương thời có lẽ mới chỉ xuất hiện trên gương đồng, khi 12 con giáp hiển hiện bằng chữ Hán (Tí, Sửu, Dần, Mão…) ở viền hình vuông bao quanh núm gương đồng niên đại thế kỷ 1 sau Công nguyên. Đáng chú ý là ở những gương sớm ở vùng Giao Châu mang ký tự 12 con thú này thì "Mão" (Mèo) đã xuất hiện chứ không phải là "Thử" (Thỏ). Tuy nhiên, lịch pháp với biểu trưng 12 con thú khi đó vận hành thế nào thì chúng tôi vẫn chưa rõ.

2. Trong bài này tôi muốn đi xa hơn từ thời kỳ những người săn bắt hái lượm văn hóa Hòa Bình ở Việt Nam. Sự quan tâm của tôi bắt nguồn từ đề tài khoa học về tính mùa vụ trong cư trú của cư dân săn bắt, hái lượm thời cổ đại.

Bằng quan sát dân tộc học các nhóm săn bắt hái lượm châu Phi, châu Úc và người Eskimo ở gần Bắc Cực, Levis Binford là người đã xác lập tính mùa vụ khi quan sát các tàn tích khảo cổ thời đại đá để lại, và nhấn mạnh việc phải nhìn nhận những "tầng văn hóa" đó như dấu hiệu cư trú mang tính mùa vụ.

Ở khu vực Đông Nam Á, nhà khảo cổ học Thái Lan là Suri Pokajorn, trong khoảng những năm 1970 - 1980 của thế kỷ trước, cũng đã khảo sát di chuyển của người Xá lá vàng ở miền nam Thái Lan để tìm ra quy luật di chuyển theo mùa thức ăn của nhóm cư dân này. Tôi cũng thuộc trường phái của L. Bilford, quan sát cách di chuyển kiếm sống của một số nhóm cư dân còn tàn dư săn bắt hái lượm như Chứt, Đan Lai, Rục, Mông, Dao, Mường… và tìm những bằng chứng thức ăn mang tính mùa trong các tầng văn hóa tiền sử Hoabinhian được định tuổi bằng phương pháp C14.

Báo Xuân - Tết nói chuyện về lịch pháp khảo cổ - Ảnh 2.

Một mẫu xương đốt sống cá (đều là loại cá lớn, khoảng 10 - 20kg) khai quật năm 1987 ở Động Cang (Kỳ Sơn, Hòa Bình). Hàng trăm mẫu như vậy đã được GS-TS R. Benecke, Viện Khảo cổ học Đức xác định mùa khai thác bằng vòng sinh trưởng trên từng đốt sống

Trước hết cần khẳng định "tính mùa" (saisonality) là bản chất của giới sinh vật gắn với biến đổi của tự nhiên nơi các loại sinh vật đó sống. Rõ rệt nhất là ở những vùng hàn đới, ôn đới với hai mùa nóng, lạnh rõ rệt. Mỗi mùa tạo ra một nguồn sống riêng biệt và thích ứng của động vật, trong đó có cả con người cũng thể hiện rõ trong tính mùa đó.

Trải hàng triệu năm, con người xác lập được những chỉ thị báo mùa - đó chính là căn nguyên đầu tiên và cơ bản của lịch pháp mùa vùng (local saisonality) sau này. Khi đàn sếu bay qua là tên bộ phim lãng mạn gắn với tính mùa thời gian trong năm với loài chim mỏ dài ăn thủy sinh này, trở thành một ghi nhận lịch pháp sớm của cư dân châu Âu.

"Tính mùa" là một kiến thức tự nhiên rất căn bản và quan trọng của loài người thể hiện tri thức của con người trong quan sát và thích nghi với môi trường tự nhiên mỗi vùng, đặc biệt gắn với mùa thức ăn mà cư dân nguyên thủy khai thác. Ví dụ mùa trám giữa Thu, mùa dẻ cuối Thu… Ốc tháng Tư gầy, nhiều con, ốc tháng Mười béo và sạch… cho đến mùa cá, mùa chim, mùa châu chấu, mùa hươu nai, lợn rừng đi tơ, sinh nở…

Lịch pháp của loài người bắt nguồn từ những điều thiết thực này trước khi có những ứng nghiệm dựa trên quan sát sao trăng, vũ trụ…

Về logic, thời gian dễ nhận biết nhất là ngày và đêm, bởi chu kỳ ổn định của mặt trời. Chu kỳ này đã được khắc họa để tạo thành những khoảng thời gian lớn nhất trong ngày: sáng, trưa, chiều, tối và đêm. Trong hệ giờ phương Đông, sau này, chúng được cụ thể hóa thành 12 canh giờ (Tý, Sửu, Dần, Mão…) tương ứng với 24 giờ theo lịch Tây. Đơn vị thời gian nhỏ nhất là giây, ứng với nhịp tự nhiên của quả lắc hay nhịp đập của tim, mạch con người. Hệ số 60 được xác lập ở cả phương Đông lẫn phương Tây, tạo ra các giá trị đơn vị thời gian chung của loài người. Một giấc ngủ sinh học tự nhiên là 8 tiếng, tương ứng thời gian với tắt nắng hoàn toàn và hửng những tia sáng đầu tiên - khi gà lên chuồng và gáy sáng. Kết hợp với chu kỳ tròn, khuyết của Mặt trăng, loài người ghi nhận chu kỳ "Tháng" (Nguyệt) từ rất sớm. Và chu kỳ sinh trưởng của đa phần các loài thực vật, tương thích với mùa kiếm ăn dựa trên các loài thực vật đó của một số loài động vật cấp mới chính là chỗ dựa để loài người nhận ra chu kỳ "Năm". Rất muộn về sau loài người mới nhận ra chu kỳ năm được tạo ra do vòng quay của Trái đất xung quanh Mặt trời. Vòng quay đó đã tạo ra thích ứng mùa năm trước hết là của các loài thực vật : mùa trổ bông, kết trái hàng năm. Nhận biết mùa năm của loài người là dựa vào mùa năm tự nhiên của thế giới thực vật. Bản chất Tết (hay Tiết) có lẽ có nguồn cội sâu xa từ đó.

Báo Xuân - Tết nói chuyện về lịch pháp khảo cổ - Ảnh 3.

Hình phóng đại lát cắt vỏ ốc núi Cyclophorus cho thấy các đường sinh trưởng trắng đen có độ rộng khác nhau, cho phép xác nhận mùa Hè mưa nhiều và mùa Đông khô hạn (bên trái). Các đường sinh trưởng ở phần vành miệng giúp ghi nhận thời gian mùa mà con ốc bị bắt về hang làm thức ăn

3. Khoảng những năm 1950 khoa học thế giới nhờ nhà vật lý Liby phát hiện chu kỳ phân hủy của carbon phóng xạ (radiocarbon). Những năm 1960 - 1980 các nhà khoa học trên thế giới đổ xô vào khai thác các dữ kiện mùa để lại trên thân xác động thực vật, như vòng sinh trưởng của cây, của đốt sống cá, của thân canxi nhuyễn thể… giúp bức tranh khảo cổ học tiền sử trở nên khoa học và sinh động hơn nhiều.

Tôi cũng dành tuổi trẻ của mình lao vào công cuộc tìm bằng chứng mùa cư trú, khai thác của cư dân văn hóa Hòa Bình dựa trên các đốt sống cá 10 ngàn năm ở Động Cang và trên vỏ ốc núi Con Moong, Mái đá Điều (13 ngàn và 19 ngàn năm trước). Nguyên tắc khá đơn giản, ví dụ như trên vỏ ốc núi (Cyclophorus), mỗi ngày khi con ốc chui ra khỏi vỏ kiếm ăn và chui trở lại để ngủ sẽ hình thành hai viền tạo thân canxi vỏ ốc. Gọi chung là các vòng sinh trưởng (growing line). Dùng thiết bị phóng đại đo độ lớn của các vòng sinh trưởng đó đối chiếu với sò ốc thực nghiệm, có thể biết thời điểm kết thúc, tức ngày bị con người bắt đưa về hang để ăn thịt rơi vào ngày nào trong năm, theo nguyên lý mùa nóng ẩm, mưa, thức ăn nhiều, sẽ tạo vòng sinh trưởng dày hơn so với mùa Đông khô, lạnh, ít thức ăn.

Bằng cách này, những con ốc ở Mái đá Điều cho ta một cuốn lịch năm thú vị khoảng 19 ngàn năm trước (hiệu chỉnh vòng cây tới 23 ngàn năm trước), chu kỳ năm dài hơn, đạt tới trên 400 ngày so với trung bình 365 ngày! Và con ốc đã bị con người bắt về hang ăn ngay khi bắt đầu mùa mưa năm đó (khoảng tháng 4).

 Dựa trên tiếp cận "lịch" vỏ ốc và đốt cá như vậy, có thể khẳng định con người cư trú ở những hang như Động Cang (Độc Lập, Kỳ Sơn, Hòa Bình), Đú Sáng (Kim Bôi, Hòa Bình) chủ yếu  trong mùa Đông, trong khi đó ở hang Con Moong, Mái đá Điều (Thạch Thành, Cẩm Thủy, Thanh Hóa) chỉ trong mùa Hè - Thu, ở Xóm Trại, Làng Vành (Lạc Sơn) cả bốn mùa quanh năm…

"Những con ốc ở Mái đá Điều cho ta một cuốn lịch năm thú vị khoảng 19 ngàn năm trước (hiệu chỉnh vòng cây tới 23 ngàn năm trước), chu kỳ năm dài hơn, đạt tới trên 400 ngày so với trung bình 365 ngày"! - TS Nguyễn Việt.

TS Nguyễn Việt

Tags:
Cùng chuyên mục
Xem theo ngày
Đọc thêm