28/01/2025 20:06 GMT+7 | Văn hoá
1. Tháng Ba, khi dập dìu những làn sóng xanh bất tận của lúa đang thì con gái thì cũng là lúc những đàn én dệt thoi trên mặt ruộng. Chúng nhao lên, nhao xuống hả hê hơi mát.
Ai cũng nghĩ là én rong chơi, nhưng biết đâu đó là lúc én chao mình săn mồi. Cào cào, châu chấu, bọ rầy, sâu nhện… đầy rẫy trên đồng là những món thực phẩm nuôi đàn én. Nắng ấm tháng Ba là mùa sinh sản của đám côn trùng phá hoại mùa màng, và chim én là đội quân hùng hậu trừng phạt chúng.
Én là loại chim duy nhất có thể ăn trong khi bay, là loài chim duy nhất vừa thức, vừa ngủ trên đường bay dài cả vạn cây số khi di trú về phía Nam tránh cái rét ngặt nghèo phương Bắc.
Hình ảnh chim én chao nghiêng trên đồng là kỷ niệm đẹp của tuổi thơ tôi.
Con chim én thật đáng yêu. Lông đen ngực trắng dáng vẻ phong lưu mã thượng, dù én chỉ nhỏ như chim nhạn nhưng đuôi dài cánh sắc, thể lực bền bỉ. Đôi lúc ta thấy hai con, có lúc cả một dãy dài chim én dàn hàng đậu trên dây điện cao thế như những nốt lặng trên khuông nhạc. Đó là lúc én nghỉ chân chốc lát trên đường di chuyển. Én hầu như không bao giờ đậu trên các lùm cây rậm rạp. Nó sống với môi trường đầy ánh sáng của tự do.
2. Tôi không phải người Tây Bắc nên không biết quê hương chim én có phải ở đó không. Nhưng cách đây trên nửa thế kỉ, lên thượng nguồn sông Đà, tôi bắt gặp những đội thuyền đuôi én vận chuyển hàng hóa.
Thuyền gỗ ghép rất đẹp, di chuyển bằng mái chèo. Thuyền có khoang rộng chứa hàng hóa, đuôi thuyền điệu nghệ vút lên hình đuôi chim én, rất thơ mộng.
Thuyền đuôi én là phương tiện vận chuyển duy nhất trên Đà giang một thời… Nhìn con thuyền có thể đoán ra phương tiện này phải được tạo ra từ hàng trăm năm trước nên nó mới được gọt rũa đến mức hoàn mỹ như vậy. Chẳng cần điều tra thì người ta cũng biết chắc chắn có thời én rợp trời Tây Bắc. Én và con người sống rất thân thiện với nhau. Vì thế người Thái trên sông Đà đã tạo ra thuyền đuôi én đẹp đến như thế!
Bây giờ thì Đà giang bặt không còn bóng dáng thuyền đuôi én nữa khi thuyền có động cơ, chân vịt đỡ sức cho tay chèo. Bây giờ thuyền có cấu trúc khác cho hợp với máy, nên bóng dáng một thời của phương tiện vận chuyển đường thủy trên sông Đà - thuyền đuôi én - đã lùi vào quá khứ.
3. Nhớ chục năm trước tôi đưa hai người bạn từ TP.HCM ra đi xuyên Tây Bắc. Qua triền sông Đà đến Lai Châu, trên chặng dừng chân bên một cây cầu, tôi xuống xe, tha thẩn cầm máy săn hình, bỗng thấy mấy cánh én nhao vút qua lại một chái nhà. Chúng vụt đến, vụt đi như con thoi. Hỏi ra mới biết đấy là nơi én làm tổ sinh sản. Chúng đi kiếm mồi về cho con. Đây là bản Thái. Tôi bâng khuâng nhận ra và rồi đi đến khẳng định miền Tây Bắc đất nước chắc chắn đã từng là cái nôi của loài én. Ôi, con chim én hiền lành đẹp như những nốt nhạc thánh ca thân thương đã từng tụ hội ở mảnh đất hiền hậu này.
Một bác già của bản nói với chúng tôi: Cháu ạ, những ngôi nhà mới, xây xi măng thì không có chỗ cho én làm tổ nên chỗ ấy không còn én. Én chỉ tìm chỗ ở những ngôi nhà cũ này thôi.
4. Mấy năm trước, một bạn văn của tôi nói đến Mường Lò thuộc Yên Bái dự một lễ hội văn hóa vùng miền. Hình ảnh bạn đưa đập vào mắt tôi là những xâu chim én nướng vàng rộm, phục vụ cho khách du lịch và được quảng bá là món đặc sản. Những thân chim côi cút, chỉ bằng ngón chân cái, được tẩm ướp hương liệu, quay nướng trên chảo than hồng, phát ra tiếng xèo xèo như lời oán hận. Đôi cẳng chân chim như que tăm khô khốc, co quắp trong đau đớn. Ai có thể ăn món đặc sản đó? Tôi thì không!
Nghĩ thế, lòng ta lại đau! Lại nhớ sông Đà với những đội thuyền đuôi én năm xưa và hôm nay trên dải đất miền Tây Bắc chỉ còn thưa thớt những cánh én buồn thảm… Một nỗi buồn day dứt trong tôi mỗi khi nhớ về những cánh én mùa Xuân năm xưa, nay đang mòn mỏi dần…
Đăng nhập
Họ và tên
Mật khẩu
Xác nhận mật khẩu
Mã xác nhận
Tải lại captchaĐăng ký
Xin chào, !
Bạn đã đăng nhập với email:
Đăng xuất