26/12/2024 09:17 GMT+7 | Tin tức 24h
Tháng 12/1972, bầu trời Hà Nội và miền Bắc Việt Nam chứng kiến một cuộc đối đầu lịch sử giữa ý chí kiên cường của Nhân dân Việt Nam và sức mạnh không lực hiện đại nhất của Mỹ.
Với chiến dịch Linebacker II kéo dài 12 ngày đêm, đế quốc Mỹ huy động hàng trăm máy bay B-52 cùng kho vũ khí khổng lồ nhằm hủy diệt Hà Nội, Hải Phòng và các thành phố lớn với mục tiêu ép Việt Nam phải nhượng bộ tại bàn đàm phán Paris. Nhưng với ý chí kiên cường, niềm tin sắt đá, mưu trí, sáng tạo, quân và dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã làm nên một chiến công vĩ đại - chiến thắng "Hà Nội - Điện Biên Phủ trên không", buộc Chính phủ Mỹ phải ký Hiệp định Paris, chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam, góp phần tiến tới giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Đây không chỉ là một kỳ tích quân sự mà còn là biểu tượng sáng ngời của lòng yêu nước, trí tuệ và bản lĩnh Việt Nam.
Âm mưu dùng sức mạnh "pháo đài bay" B-52 tấn công miền Bắc
Tháng 12/1972, trong bối cảnh cuộc chiến tranh Việt Nam kéo dài với nhiều bất lợi trên chiến trường, Mỹ quyết định tiến hành chiến dịch Linebacker II - một cuộc tập kích chiến lược bằng máy bay B-52 vào miền Bắc Việt Nam. Đây là kế hoạch leo thang quân sự quy mô lớn với mục tiêu tạo sức ép mạnh mẽ lên Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa tại bàn đàm phán Paris, buộc ta phải nhượng bộ theo các điều khoản có lợi cho Mỹ.
B-52 là loại máy bay ném bom chiến lược hiện đại bậc nhất thời bấy giờ, được mệnh danh là "pháo đài bay" vì khả năng mang theo khối lượng bom khổng lồ và bay ở độ cao lớn, vượt xa tầm với của phần lớn hệ thống phòng không. Bên cạnh đó, những "pháo đài bay" này còn được trang bị nhiều máy gây nhiễu để gây khó khăn cho hệ thống radar, tên lửa phòng không của đối phương. Với ưu thế đó, Mỹ kỳ vọng rằng B-52 sẽ nhanh chóng san phẳng các mục tiêu quan trọng như Hà Nội, Hải Phòng, các trung tâm kinh tế, chính trị và quân sự lớn ở miền Bắc Việt Nam.
Mục tiêu chiến lược của đế quốc Mỹ không chỉ là gây thiệt hại nặng nề về vật chất mà còn đánh gục ý chí kháng chiến của quân và dân miền Bắc. Chúng tin rằng việc phá hủy hạ tầng trọng yếu cùng với áp lực từ thiệt hại về người sẽ khiến Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa phải chấp nhận các điều kiện bất lợi trong Hiệp định Paris. Đồng thời, chúng cũng muốn khôi phục niềm tin của công luận quốc tế và trong nước vào sức mạnh quân sự của mình sau chuỗi thất bại liên tiếp trên chiến trường miền Nam.
Trong chiến dịch Linebacker II, đế quốc Mỹ đã huy động lực lượng lớn chưa từng có B-52, với 193 chiếc, chiếm một nửa trong tổng số B-52 trong biên chế không quân chiến lược Hoa Kỳ khi đó. Bên cạnh đó còn có hàng nghìn máy bay chiến đấu khác. Trong khi đó, đối đầu với lực lượng không quân hùng mạnh nhất thế giới này lại là lực lượng phòng không-không quân Việt Nam non trẻ, sử dụng vũ khí được viện trợ bởi các nước XHCN anh em.
Giới chức quân sự Mỹ tin rằng, với B-52, tên lửa S-75 "Dvina" của quân đội Việt Nam sẽ hoàn toàn bị "mù" nếu tìm cách bắn trả; máy bay MiG-21 nếu cất cánh sẽ bị tiêu diệt gọn bằng đội ngũ tiêm kích hộ tống hùng hậu; những khẩu pháo phòng không và súng máy với tầm bắn hạn chế sẽ hoàn toàn vô hiệu, nằm chờ sự hủy diệt...
Nhưng kết quả sau đó lại làm cho đế quốc Mỹ và cả thế giới phải kinh ngạc.
Những dự báo thiên tài của Chủ tịch Hồ Chí Minh và kế sách "bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa"
Năm 1962, khi máy bay B-52 còn chưa tham chiến ở Việt Nam, với nhãn quan chính trị nhạy bén và tầm nhìn chiến lược, trên cơ sở nghiên cứu tìm hiểu âm mưu, thủ đoạn, quy luật sử dụng lực lượng không quân Mỹ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dự báo đế quốc Mỹ sẽ sử dụng loại máy bay này ở Việt Nam. Người căn dặn: "… phải theo dõi chặt chẽ và thường xuyên quan tâm đến loại máy bay B-52 này".
Đúng như dự báo của Người, ngày 18/6/1965, lần đầu tiên đế quốc Mỹ sử dụng B-52 ném bom khu vực Bến Cát (tây bắc Sài Gòn). Người đã khẳng định ý chí sắt đá của Đảng và cả dân tộc: "Dù đế quốc Mỹ có lắm súng nhiều tiền, dù chúng có B-57, B-52 hay "bê" gì đi nữa ta cũng đánh, từng ấy máy bay, từng ấy quân Mỹ chứ nhiều hơn nữa ta cũng đánh mà đánh là nhất định thắng".
Muốn đánh thắng B-52, trước tiên là phải tìm hiểu tính năng, kỹ thuật, đặc điểm và quy luật hoạt động của nó, trên cơ sở đó, tìm ra cách đánh phù hợp. Do đó, tháng 5/1966, Quân chủng Phòng không-Không quân đã tổ chức cho Trung đoàn tên lửa 238 cơ động vào Vĩnh Linh, nghiên cứu cách đánh B-52.
Ngày 17/9/1967, tại trận địa T5, Nông trường Quyết Thắng (Vĩnh Linh), Tiểu đoàn 84, Trung đoàn 238 đã bắn rơi chiếc máy bay B-52 đầu tiên. Từ đó, chúng ta luôn luôn duy trì một lực lượng ở chiến trường để đánh B-52, với phương châm là vừa đánh, vừa nghiên cứu.
Cuối năm 1967, khi làm việc với Bộ Tư lệnh Quân chủng Phòng không-Không quân, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tiếp tục đưa ra một dự báo thiên tài: "Sớm muộn rồi đế quốc Mỹ cũng sẽ đưa B-52 ra đánh Hà Nội, rồi có thua nó mới chịu thua. Phải dự kiến trước mọi tình huống, càng sớm càng tốt, để có thời gian mà suy nghĩ, chuẩn bị. Mỹ sẽ nhất định thua, nhưng nó chỉ chịu thua trên bầu trời Hà Nội". Lời dự báo này thể hiện tầm nhìn chiến lược của Người, nhận định chính xác rằng Hà Nội sẽ trở thành mục tiêu tập kích trọng yếu trong ý đồ leo thang chiến tranh của Mỹ. Người cũng tin tưởng rằng sự thất bại của B-52 tại Hà Nội sẽ là đòn chí mạng, buộc Mỹ phải rút lui và kết thúc chiến tranh.
Thực hiện sự chỉ đạo của cấp trên, đặc biệt là sự nhắc nhở thường xuyên của Chủ tịch Hồ Chí Minh, từ đầu năm 1968, Bộ Tư lệnh Quân chủng Phòng không-Không quân bắt tay vào xây dựng kế hoạch đánh trả một cuộc tập kích đường không chiến lược bằng máy bay B-52 của đế quốc Mỹ vào Hà Nội trong vòng 5 năm tới. Có thể nói, đây là một bản kế hoạch rất độc đáo trong nghệ thuật quân sự Việt Nam. Bởi lẽ, lúc bấy giờ, ngay cả phía Mỹ cũng chưa có chút manh nha gì về kế hoạch tiến công ồ ạt miền Bắc bằng máy bay B-52.
Kế hoạc lúc đầu còn sơ lược, nhưng qua chiến đấu thực tiễn và từng bước rút kinh nghiệm, bản kế hoạch được hoàn chỉnh dần. Đáng chú ý nhất là cuốn sách cẩm nang bìa đỏ mang tên "Cách đánh B-52" của bộ đội tên lửa. Tuy chỉ có 30 trang đánh máy, nhưng đó là sự tổng hợp, đúc kết kinh nghiệm trong quá trình gần 7 năm chiến đấu với B-52 và các thủ đoạn của không quân Mỹ, nhất là những kinh nghiệm và phương pháp mới nhất, được rút ra sau trận tập kích ngày 16/4/1972 bằng B-52 của địch vào Hà Nội và Hải Phòng.
Trên cơ sở tài liệu này, ngày 31/10/1972, Quân chủng Phòng không-Không quân tổ chức Hội nghị cán bộ để thảo luận, phổ biến cách đánh B-52. Việc sử dụng hợp lý các loại vũ khí hiện có và hợp đồng tác chiến chặt chẽ giữa bộ đội radar, tên lửa phòng không, pháo phòng không, không quân tiêm kích, lực lượng phòng không của bộ đội địa phương và dân quân tự vệ sẽ tạo ra lưới lửa phòng không dày đặc; máy bay Mỹ dù bay ở độ cao nào, từ hướng nào, ở khung thời gian nào cũng có thể bị tiêu diệt. Ngoài ra, cán bộ, nhân dân trên toàn miền Bắc cũng được tổ chức, huy động tối đa để phục vụ chiến đấu. Đây thực sự là nét độc đáo của nghệ thuật quân sự Việt Nam, thể hiện sức mạnh tổng hợp của chiến tranh nhân dân.
Đến ngày 3/12/1972, Bộ Tư lệnh Quân chủng Phòng không-Không quân đã báo cáo lên cấp trên mọi mặt công tác chuẩn bị đánh B-52 đã xong; đồng thời, ra quyết tâm chiến đấu trong toàn lực lượng, không để Hà Nội, Hải Phòng bị bất ngờ, quyết đánh bại cuộc tập kích bằng B-52 của không quân Mỹ.
Hạ gục "pháo đài bay"
10 giờ 30 phút ngày 17/12/1972, ngay khi Tổng thống Níchxơn ra lệnh mở cuộc tiến công bằng không quân vào Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố, thị xã trên miền Bắc, quân và dân toàn miền Bắc đã vào trạng thái sẵn sàng chiến đấu, quyết tâm đánh bại cuộc tập kích đường không chiến lược của đế quốc Mỹ.
Sau 19 giờ cùng ngày, B-52 bắt đầu oanh kích sân bay Nội Bài, sân bay Hòa Lạc, các nhà ga Yên Viên, Đông Anh, Cổ Loa. 19 giờ 44 phút, quả tên lửa đầu tiên của Tiểu đoàn 78, Trung đoàn Tên lửa 257 được phóng lên, cuộc chiến đấu 12 ngày đêm của lực lượng phòng không 3 thứ quân bảo vệ Hà Nội bắt đầu.
20 giờ 13 phút, Tiểu đoàn tên lửa 59 (Đoàn Thành Loa) bắn trúng chiếc B-52 đầu tiên của chiến dịch. Đây là chiếc B-52 đầu tiên bị bắn rơi tại chỗ trên bầu trời Hà Nội, cách trận địa chưa đầy 10 km. Thắng lợi hạ gục tại chỗ "Siêu pháo đài bay-B52" ngay trong đêm đầu tiên có ý nghĩa đặc biệt quan trọng về tư tưởng và tác chiến, giải tỏa những lo lắng, băn khoăn của Bộ Chính trị, Bộ Tổng Tham mưu và tất cả cán bộ, chiến sĩ trực tiếp chiến đấu bảo vệ Hà Nội, nhân lên niềm tin chiến thắng trong toàn thể quân dân.
Suốt đêm 18 đến rạng ngày 19/12, đế quốc Mỹ huy động 90 lần chiếc B-52 ném 3 đợt bom xuống thủ đô Hà Nội. Xen kẽ các đợt đánh phá của B-52 có 8 lần chiếc F.111 và 127 lần máy bay cường kích, bắn phá các khu vực nội ngoại, thành. Trong đêm đầu tiên Mỹ đã ném khoảng 6.600 quả bom xuống 135 địa điểm thuộc thủ đô Hà Nội, 85 khu vực dân cư bị trúng bom, làm chết 300 người. Quân và dân ta đã anh dũng chiến đấu, bắn rơi 6 máy bay các loại, trong đó có 2 máy bay B-52 rơi tại chỗ.
Phát huy chiến thắng trận đầu của chiến dịch, bộ đội phòng không-không quân đã liên tiếp lập công trong các trận đánh tiếp theo, đặc biệt là trong trận then chốt quyết định chiến dịch ngày 26/12/1972. Theo đó, đêm 26/12 được xem là cao trào ác liệt nhất của chiến dịch. Mỹ đã huy động hơn 100 chiếc B-52, phối hợp cùng hàng trăm máy bay chiến đấu, tập trung tấn công Hà Nội với mật độ bom chưa từng có. Trong màn lửa bom ác liệt ấy, lực lượng phòng không Việt Nam, với tinh thần quả cảm và chiến thuật xuất sắc, đã bắn rơi 8 máy bay B-52, trong đó có 5 chiếc rơi tại chỗ. Chiến thắng vang dội này đã làm lung lay niềm tin của giới lãnh đạo Mỹ vào khả năng giành thắng lợi qua sức mạnh quân sự.
Bị tổn thất nặng nề, 7 giờ sáng 30/12/1972, Richard Nixon phải tuyên bố chấm dứt cuộc tập kích đường không chiến lược vào Hà Nội, Hải Phòng, ngừng ném bom từ Vĩ tuyến 20 trở ra và đề nghị Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa tiếp tục đàm phán, ký kết Hiệp định Paris.
Trong 12 ngày đêm, đế quốc Mỹ đã sử dụng 663 lần chiếc B-52 và 3.920 lần chiếc máy bay chiến thuật, ném hơn 100 nghìn tấn bom, đạn xuống Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố, thị xã miền Bắc nước ta. Riêng ở Hà Nội, địch sử dụng 441 lần chiếc B-52 cùng nhiều máy bay chiến thuật ném hàng nghìn tấn bom xuống các khu phố, sân bay, nhà ga, bệnh viện, trường học...
Những thiệt hại mà chiến dịch này để lại cho miền Bắc là vô cùng to lớn: hàng nghìn người dân thiệt mạng, nhiều công trình văn hóa, kinh tế, y tế và cơ sở hạ tầng bị phá hủy nghiêm trọng. Trong đó, phố Khâm Thiên - khu vực có mật độ dân số đông nhất Hà Nội - bị bom B-52 tàn phá nặng nhất. Những hy sinh, mất mát trong 12 ngày đêm rực lửa ấy đã trở thành biểu tượng của tinh thần quật cường, bất khuất của dân tộc Việt Nam.
Đổi lại, trong 12 ngày đêm đó, quân và dân miền Bắc đã bắn hạ 81 máy bay các loại, trong đó có 34 B-52 và 5 F-111. Riêng ở Thủ đô Hà Nội, ta bắn rơi 30 máy bay, trong đó có 23 B-52 và 2 F-111. Cùng với đó là gần 100 phi công kỳ cựu của Hoa Kỳ bị giết và bắt sống.
Đây là lần đầu tiên Mỹ chịu tổn thất nặng nề như vậy trong một cuộc tập kích đường không, riêng tỷ lệ tổn thất B-52 lên tới 17% (34/193 chiếc). Tướng George Etter, Phó chỉ huy không quân chiến lược Mỹ, ngày 30/12/1972, đã thú nhận trên tạp chí US.Air Forces (Không lực Hoa Kỳ): "Tổn thất về máy bay chiến lược B-52 cùng các nhân viên phi hành là hết sức nặng nề, là đòn choáng váng đánh thẳng vào những nhà vạch kế hoạch của Lầu Năm góc".
Đây cũng là lần đầu tiên trong lịch sử chiến tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc (1945-1975), Việt Nam tiến hành một chiến dịch phòng không quy mô lớn nhất chống lại một cuộc tập kích chiến lược bằng B-52 điên cuồng nhất, dã man nhất của đế quốc Mỹ, cũng là cuộc tập kích quy mô chưa từng có trong lịch sử chiến tranh hiện đại trên thế giới.
Ngày 30/12/1972 các báo đăng toàn văn thông cáo Bộ Tổng tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam, trong đó có câu: "Không có sức mạnh tàn bạo nào có thể khuất phục nổi dân tộc Việt Nam anh hùng".
Trước đó, cụm từ đầy ý nghĩa "Hà Nội - Điện Biên Phủ trên không" và "Hà Nội, lương tri và phẩm giá con người" lần đầu tiên được đăng trên Báo Nhân dân đã ngay lập tức được các hãng thông tấn, báo chí phương Tây và Mỹ sử dụng, để ca ngợi chiến thắng vĩ đại của Việt Nam.
Chiến thắng của trí tuệ và sức mạnh Việt Nam
Chiến thắng "Hà Nội - Điện Biên Phủ trên không" đóng vai trò quyết định trực tiếp, buộc chính phủ Mỹ phải ký Hiệp định Paris ngày 27/1/1973 về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam. Mỹ đã phải rút hết quân viễn chinh và quân đồng minh về nước, mở ra bước ngoặt mới cho toàn bộ sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của dân tộc ta; đồng thời làm nức lòng bè bạn và nhân dân yêu chuộng hòa bình thế giới, cổ vũ mạnh mẽ phong trào cách mạng giải phóng dân tộc.
Chiến thắng là biểu tượng sáng ngời của ý chí quật cường, trí tuệ và sức mạnh chiến đấu của quân và dân ta dưới sự lãnh đạo tài tình của Đảng. Đây không chỉ là một thắng lợi quân sự vĩ đại mà còn là dấu ấn đỉnh cao của nghệ thuật quân sự cách mạng Việt Nam trong thời đại mới.
Chiến thắng này bắt nguồn từ dự báo chính xác của Chủ tịch Hồ Chí Minh về âm mưu sử dụng B-52 của đế quốc Mỹ; sự chuẩn bị kỹ lưỡng, từ sớm; những quyết định chiến lược sáng suốt của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, từ đó đề ra phương châm hành động: kết hợp giữa chiến thuật tác chiến tại chỗ rộng khắp và tập trung hiệp đồng binh chủng, xây dựng thế trận phòng không toàn diện nhiều tầng, nhiều lớp với lực lượng tên lửa làm nòng cốt.
Những nghiên cứu cùng thực tiễn chiến đấu đã giúp quân đội ta không ngừng cải tiến chiến thuật, sẵn sàng đối đầu với các cuộc tập kích đường không chiến lược của địch. Đặc biệt, việc tổ chức hệ thống phòng không tại các khu vực trọng yếu như Hà Nội đã tạo nên một pháo đài phòng không bất khả chiến bại, bảo vệ Thủ đô và các mục tiêu quan trọng.
Bên cạnh đó, tinh thần sáng tạo và phối hợp chiến đấu chặt chẽ chính là nhân tố quyết định thắng lợi của chiến dịch. Trong đó, lực lượng phòng không ba thứ quân đã phát huy cao độ năng lực sáng tạo, kết hợp chặt chẽ các biện pháp chiến thuật và kỹ thuật. Bộ đội radar xuất sắc "vạch nhiễu, tìm thù," dẫn đường chính xác cho các lực lượng tên lửa bắn rơi máy bay B-52, bất chấp hệ thống gây nhiễu tối tân của địch. Nghệ thuật nghi binh độc đáo như "phóng tên lửa giả" đã buộc đối phương phá vỡ đội hình, giảm hiệu quả chiến đấu, từ đó nâng cao khả năng tiêu diệt máy bay địch của ta.
Có thể thấy, hệ thống phòng không Việt Nam đã tạo nên "lưới lửa" dày đặc, bao phủ từ vòng ngoài đến vòng trong, kết hợp nhịp nhàng giữa radar, tên lửa, pháo phòng không và không quân tiêm kích. Dù B-52 được mệnh danh là "pháo đài bay bất khả xâm phạm" chúng vẫn không thể thoát khỏi sự tấn công dồn dập từ mọi hướng và ở mọi độ cao của các lực lượng phòng không, không quân Việt Nam.
Chiến thắng "Hà Nội - Điện Biên Phủ trên không" ghi dấu mốc chói lọi trong lịch sử Việt Nam hiện đại; là bản anh hùng ca hào hùng về bản lĩnh, trí tuệ của con người Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh. Những bài học từ chiến thắng oanh liệt này sẽ tiếp tục được nghiên cứu, vận dụng, phát triển trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Đăng nhập
Họ và tên
Mật khẩu
Xác nhận mật khẩu
Mã xác nhận
Tải lại captchaĐăng ký
Xin chào, !
Bạn đã đăng nhập với email:
Đăng xuất