01/02/2014 08:14 GMT+7
Chợ hoa Tết Sài Gòn
Tết nào quan trọng hơn?
Với người Mường ngày đó thường rơi vào tháng 10 Âm lịch, và tùy từng vùng gặt sớm hay gặt muộn, mà ăn Tết. Sau tháng 10 là tháng 1 theo lịch Mường cổ, tức là chuyển sang năm mới. Dấu tích của lịch này còn thấy được trong Âm lịch Việt Nam, khi kết hợp với Âm Dương lịch của Trung Hoa. Nếu như Âm Dương lịch Trung Hoa tính tháng Giêng là bắt đầu gọi là Dần thì tiếp theo là Mão - Thìn - Tỵ - Ngọ - Mùi - Thân - Dậu - Tuất - Hợi. Người Kinh (Việt) thì gọi là Giêng - Hai - Ba - Tư - Năm - Sáu - Bẩy - Tám - Chín - Mười - Một - Chạp. Và khi chấp nhận Âm Dương lịch phương Đông, thì người Việt cũng coi Tết Nguyên đán là Tết đầu năm mới, tức là bắt đầu năm mới tính từ ngày mùng một tháng Dần (Giêng) gọi là Nguyên đán, ngày 15 Âm lịch tháng Giêng gọi là Nguyên tiêu. Nếu khảo kỹ từng sắc tộc sống trên mảnh đất Việt Nam, thì rõ ràng mỗi tộc người có cách quan niệm riêng về Tết và cũng không hẳn thống nhất với Tết Nguyên đán. Chẳng hạn người H’mong ở vùng Mộc Châu có hai ngày Tết, một ngày Tết Độc lập 2/9 (Dương lịch), tất nhiên họ lấy ngày lập nước và ngày Tết mùng một tháng một Dương lịch, theo Tây lịch. Chúng tôi không rõ với người H’mong nơi đây, Tết Nguyên đán có ý nghĩa gì không so với hai ngày tết kia, và với người Mường ở Lương Sơn cũng vậy, Tết lúa mới tháng 10 Âm lịch quan trọng hay Tết Nguyên đán quan trọng. Lịch người Mường (ở Mường Bi) một năm tính tháng như sau: Chiêng - Háp - Một - Hai - Ba - Bốn - Năm - Sáu - Bẩy - Tám - Chín - Mười. Tương đương với Âm lịch thì các tháng là: Tháng Chiêng - tháng 10, tháng Háp - tháng 11… và cuối cùng tháng 10 tương ứng với tháng 9 Âm lịch. Lịch Mường này còn tùy thuộc vào các vùng miền khác nhau, nhanh chậm chừng một đến ba tháng không thống nhất, nhưng chính xác với vụ mùa của địa phương, có nơi lại trùng khít với Âm lịch của người Việt (Kinh).
Tết lúa mới và Tết xuống đồng vào mùa Xuân có lẽ là hai thời khắc quan trọng với dân nông nghiệp Việt cổ. Với người Việt (Kinh) thì nông vụ theo Xuân Hạ Thu Đông, tháng 10 Âm lịch là vụ gặt lúa mùa, sau đó cho đất nghỉ hoặc trồng ít cây hoa màu mùa Đông, như mía, bắp cải, su hào, sang tháng 12 (Chạp) cày vỡ đất đợi mưa xuân cấy lúa mới vụ chiêm. Từ tháng 8 đến tháng 12 Âm lịch, người ta bắt đầu chuẩn bị hàng hóa bán cho đợt Tết, như vàng mã, tranh dân gian, bánh trái, đồ chơi, vải vóc. Và rồi Tết đến tháng Giêng được coi là tháng ăn chơi, du xuân, dự lễ hội mùa Xuân qua các làng.
Tết xưa hay Tết nay?
Theo Việt Nam phong tục của Phan Kế Bính, trước thời khắc Nguyên đán cả nửa tháng, người ta đã sắm sửa, thầy đồ ra chợ viết câu đối, dọn dẹp, dán tranh quan tướng trừ ma quỷ lên cửa, dựng cây nêu, cài lá đầu ngõ. Rồi giữa đêm 30, bày hương án, cỗ bàn ra sân tế lễ, làng mạc đánh trống đốt pháo. Sáng mùng một thì cúng gia tiên, thổ công, táo quân, nghệ sư (ông Táo thường được cúng trước 23 cho đến chiều 23 tháng Chạp), mượn người xông đất, kiêng hót rác, họ hàng đến chúc mừng, thăm hỏi, thưởng xuân, hái lộc rồi hóa vàng… Cái quy trình Tết này còn tồn tại cho đến những năm 1980 của thế kỷ trước, sau đó thay đổi chút ít khi cơ chế bao cấp giải tán và thay thế bằng nền kinh tế thị trường, nhưng về căn bản, người Việt Nam vẫn giữ tập quán Tết nhất tương tự như thời cổ, chỉ có khác về hình thức. Việc thăm hỏi hàng xóm, vẫn được giữ gìn với ý nghĩa hàng xóm tối lửa tắt đèn có nhau, nhưng bây giờ không nặng nề và nhất thiết nữa khi đô thị hóa đã lan dần đến nông thôn. Các hội đồng hương, đồng môn, đồng học, đồng tuế… có vẻ rôm rả hơn. Việc mua tranh dân gian treo Tết, dựng cây nêu, đánh trống đốt pháo dường như tắt hẳn.
Phan Cẩm Thượng
Thể thao & Văn hóa Cuối tuần
Đăng nhập
Họ và tên
Mật khẩu
Xác nhận mật khẩu
Mã xác nhận
Tải lại captchaĐăng ký
Xin chào, !
Bạn đã đăng nhập với email:
Đăng xuất