Chữ và nghĩa: Buồn ngủ, buồn nghê…

19/03/2025 17:00 GMT+7 | Văn hoá

"Em tôi buồn ngủ, buồn nghê

Buồn ăn cơm nếp, cháo kê, thịt gà

Buồn ăn bánh đúc, bánh đa

Củ từ, khoai nướng, cùng là cháo kê".

Trong bài ca dao rất quen thuộc này, nhân vật "em" được mô tả là đang có nhiều cái "buồn": buồn ngủ (buồn nghê), buồn ăn đủ thứ đời thường vẫn có: cơm nếp, cháo kê, thịt gà, bánh đúc, bánh đa, củ từ, khoai nướng, cháo kê… Toàn là những món đặc sản của miền quê xưa và nay.

Vấn đề đáng quan tâm ở đây là cấu trúc "buồn + X" trong một loạt tổ hợp liệt kê (mà "em tôi" đang hướng tới).

"Buồn" được các nhà từ điển phân chia thành các nhóm từ loại với nhiều nét nghĩa khác nhau.

Chữ và nghĩa: Buồn ngủ, buồn nghê… - Ảnh 1.

Tranh minh hoạ: Internet

Buồn có thể là tính từ hoặc động từ, với 2 nghĩa: 1. có tâm trạng không thích thú của người đang gặp việc đau thương hoặc đang có điều không được như ý. (VD: buồn vì thi trượt; lòng buồn rười rượi; "Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu/ Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ"- "Truyện Kiều". (Buồn ở đây đồng nghĩa với rầu; trái nghĩa với mừng, vui). 2. có tác động làm cho tâm trạng không thích thú. (VD: một kỷ niệm buồn; câu chuyện buồn; "Những đêm mùa Đông trên núi cao, dài và buồn, nếu không có bếp lửa sưởi kia thì Mỵ cũng đến chết héo" - Tô Hoài. (Trái nghĩa với vui). ("Từ điển tiếng Việt", Trung tâm Từ điển học, NXB Đà Nẵng, 2020).

Nét nghĩa như vậy rõ ràng không phù hợp với cấu trúc "buồn + X" mà ta đang xét. Nhưng chưa hết. Ngay phần tiếp theo trong mục từ "buồn", từ điển đã đưa ra một hướng phân loại nghĩa cho "buồn" (với 2 từ loại khác nhau):

I. (tính từ) 1) có cảm giác bứt rứt khó chịu trong cơ thể, muốn có cử chỉ hành động nào đó. (VD: buồn miệng hát nghêu ngao). 2) có cảm giác khó nhịn được cười khi bị kích thích trên da thịt. (VD: bị cù buồn không nhịn được cười).

II. (động từ) 1) cảm thấy cần làm việc gì đó, do cơ thể đòi hỏi, khó nén nhịn được. (VD: buồn tiểu, buồn ngủ… (Buồn đồng nghĩa với mót). 2) [thường kèm ý phủ định] cảm thấy muốn làm điều gì đó. (VD: chán chẳng buồn nói; "Tôi ủ rũ, chẳng buồn ăn, chẳng buồn đi, đứng cũng chẳng buồn đứng" - Tô Hoài). (Đồng nghĩa với thèm, thiết).

Như vậy, "buồn" của nhân vật "em" thuộc nghĩa II trong từ điển đã phân loại. Buồn ngủ là "đang ở trạng thái muốn ngủ, tới mức khó cưỡng".

Nhưng "em" đâu chỉ "buồn ngủ" mà còn "buồn nghê" nữa. "Buồn nghê" đứng một mình không có nghĩa. Sở dĩ ta chấp nhận "buồn nghê" vì trong ngữ cảnh, theo mạch câu ca dao, "nghê" là thành tố trong "ngủ nghê" (ngủ, nói khái quát) (VD: Sắp tới giờ làm chiều rồi, còn ngủ nghê gì nữa). Việc tách lâm thời như vậy trong tiếng Việt (ngôn ngữ đơn âm) không thiếu. Ta vẫn nghe và chấp nhận.

Chẳng hạn, tổ hợp "ong lơi" trong "Biết bao bướm lả ong lơi" - "Truyện Kiều"; hoặc tổ hợp "mua thà" trong "Hôm nay mẹ còn mua thịt mua thà làm gì nữa"; hoặc tổ hợp "đi nhẹt" trong "Nó đi nhậu đi nhẹt đã quen rồi."... Áp lực ngữ cảnh đã cho phép những trường hợp xen lẫn (tưởng vô lý) như thế tồn tại, được người nghe hiểu và hoàn toàn chấp nhận.

Nói buồn ngủ buồn nghê, thôi cũng được. Nhưng có mấy ai nói "buồn ăn cơm nếp", "buồn ăn cháo kê", "buồn ăn thịt gà"… (như trong các câu "Tôi buồn ăn cơm nếp lắm", hoặc "Tôi buồn ăn thịt gà") đâu nhỉ? Tuy nhiên, trong trường hợp này thì được: Có ai đó mời "Hôm nay có nhiều cơm nếp, cháo kê, thịt gà đó. Cậu vào ăn đi!" thì có thể có người trả lời "Ôi dào! Tớ chán chả buồn ăn!" (buồn chả thiết ăn). Những câu như vậy thường thấy trong các câu phủ định.

Quay trở lại bài ca dao trên, nhờ cấu trúc "buồn ngủ buồn nghê" mà một loạt tổ hợp "buồn ăn cơm nếp, cháo kê, thịt gà…" sau đó cho ta cảm thấy bình thường (theo mạch diễn ngôn).

"Buồn nghê" nếu đứng một mình

Ra ngoài ngữ cảnh tình hình sẽ gay

PGS-TS Phạm Văn Tình

Cùng chuyên mục
Xem theo ngày
Đọc thêm